Lịch sử Tàu_cánh_ngầm

Các nguyên mẫu

Tàu cánh ngầm Forlanini trên Hồ Maggiore, 1910.

Từ năm 1899 đến năm 1901, nhà thiết kế tàu người Anh John I Thornycroft đã làm việc trên một loạt mô hình với một thân nghiêng và một cánh hình cung duy nhất. Năm 1909 công ty của ông chế tạo một con tàu đúng tỷ lệ dài 22m, Miranda III, sử dụng động cơ 60 hp, tàu nằm trên một cánh ngầm hình cung và phần đuôi phẳng. Chiếc Miranda IV sau đó đã đạt tốc độ 35 kn. .

Một bài báo vào tháng 3 năm 1906 trên tờ Scientific American của người tiên phong trong lĩnh vực tàu cánh ngầm là William E. Meacham, người Mỹ, đã giải thích các nguyên lý của tàu cánh ngầm. Alexander Graham Bell coi việc phát minh ra thuỷ phi cơ là một thành tựu rất đáng chú ý. Sau khi đọc bài báo này Bell bắt đầu phác thảo ra các ý tưởng của cái hiện gọi là tàu cánh ngầm. Cùng với Casey Baldwin, ông bắt đầu tiến hành thực nghiệm tàu cánh ngầm vào mùa hè năm 1908. Baldwin đã nghiên cứu công việc của nhà phát minh người Italia Enrico Forlanini và bắt đầu thử nghiệm các mô hình trên thiết kế của riêng ông. Điều này dẫn ông và Bell phát triển tàu cánh ngầm chạy trên mặt nước. Trong chuyến đi vòng quanh thế giới của Bell năm 1910-1911 ông cùng Baldwin gặp Forlanini ở Italia. Họ đã cùng đi trên chiếc tàu cánh ngầm của Forlanini trên Hồ Maggiore. Baldwin đã miêu tả đó là một chuyến đi êm ả như bay. Khi quay trở lại Baddeck một số thiết kế đã được thử nghiệm và dẫn tới chiếc HD-4. Sử dụng các động cơ Renault tốc độ tối đa 87 km/h (54 mph) đã đạt được, tăng tốc nhanh chóng, lướt dễ dàng qua sóng, dễ điều khiển và có độ ổn định tốt. Báo cáo của Bell tới Hải quân Hoa Kỳ đã cho phép ông có được hai động cơ 260 kW (350 sức ngựa). Ngày 9 tháng 9 năm 1919 chiếc HD-4 đã lập một kỷ lục tốc độ trên biển 114 km/h (70.86 mph). Kỷ lục này tồn tại trong mười năm. Một phiên bản đúng kích thước của chiếc HD-4 có trong bảo tàng tại Địa điểm Lịch sử Quốc gia Alexander Graham Bell ở Baddeck.

Những con tàu chở khách đầu tiên

Baron von Schertel đã làm việc với các con tàu cánh ngầm trước và sau Thế chiến II tại Đức. Sau cuộc chiến, đội của Schertel bị người Nga bắt giữ. Bởi Đức không được phép chế tạo những con tàu chạy nhanh, Schertel phải sang Thuỵ Sĩ, nơi ông thành lập công ty Supramar. Năm 1952, Supramar đưa ra chiếc tàu cánh ngầm thương mại đầu tiên, PT10 "Freccia d'Oro" (Mũi tên Vàng), trên Hồ Maggiore, giữa Thuỵ Sĩ và Italia. Chiếc PT10 theo kiểu cắt bề mặt, có thể chở 32 hành khách và di chuyển với tốc độ 35kn/h. Năm 1968, Hussain Najadi một nhà ngân hàng người Bahrain, đã mua lại Supramar AG và mở rộng hoạt động của nó tới Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Anh Quốc, Na Uy và Mỹ. General Dynamics của Mỹ là công ty được Supramar cấp giấy phép, và Lầu Năm Góc đã trao cho công ty này dự án nghiên cứu hải quân R&D đầu tiên về lĩnh vực supercavitation. Hãng đóng tàu Hitachi tại Osaka, Nhật Bản, là một đối tác được cấp phép khác của Supramar, cũng như nhiều công ty đóng tàu hàng đầu khác tại các nước thuộc khối OECD.

Từ năm 1952 đến năm 1971, Supramar đã thiết kế nhiều mẫu tàu cánh ngầm: PT20, PT50, PT75, PT100 và PT150. Tất cả đều theo kiểu cắt bề mặt, ngoại trừ PT150 phối hợp một cánh ngầm cắt bề mặt ở phía trước và một cánh ngầm hoàn toàn phía sau. Hơn 200 thiết kế của Supramar đã được chế tạo, hầu hết bởi Rodriquez tại Italia.

Năm 1961, SRI International đưa ra một bài nghiên cứu về "Tính khả thi kinh tế của tàu cánh ngầm chở khách thương mại ở Hoa Kỳ và nước ngoài." Việc sử dụng tàu cánh ngầm trong thương mại lần đầu diễn ra ở Mỹ năm 1961 khi hai chiếc tàu được North American Hydrofoils của Harry Gale Nye, Jr. đặt hàng để hoạt động trên tuyến đường từ Atlantic Highlands, New Jersey tới khu vực tài chính Hạ Manhattan.

Áp dụng quân sự

A Project 206M "Shtorm" (NATO - lớp Turya) tàu cánh ngầm tuần tra tấn công nhanh của Hải quân Cuba

Hải quân Canada đã chế tạo nhiều chiếc tàu cánh ngầm tốc độ cao chống tàu ngầm. chiếc HMCS Bras d'Or, hồi cuối những năm 1960, nhưng chương trình đã bị huỷ bỏ bởi sự thay đổi định hướng trong chiến lược ASW của hải quân Canada. Chiếc Bras d'Or là một tàu kiểu cắt bề mặt hoạt động tốt trong các cuộc thử nghiệm, đạt tới tốc độ tối đa 63kn.

Liên bang Xô viết đã thực hiện nhiều thí nghiệm tàu cánh ngầm, chế tạo các tàu cánh ngầm chạy sông và làm phà với các thiết kế khí động học, đặc biệt trong thập niên 1970 và 1980. Những chiếc tàu này gồm có kiểu Raketa (1957), tiếp đó là kiểu Meteor lớn hơn và kiểu Voskhod nhỏ hơn.Một trong những nhà thiết kế/phát minh thành công nhất Liên Xô trong lĩnh vực này là Rostislav Alexeyev, ông được coi là người cha của tàu cánh ngầm hiện đại dựa trên thiết kế của ông năm 1950 là những chiếc tàu cánh ngầm tốc độ cao đầu tiên của thế giới.Sau này, vào khoảng những năm 1970, Rostislav Alexeyev đi xa hơn nữa khi tạo ra chiếc Ekranoplan đầu tiên của thế giới. Người Liên Xô đã đưa nhiều chiếc tàu cánh ngầm dựa kiểu tàu tấn công nhanh vào trong hải quân của họ

Hải quân Hoa Kỳ có nhiều tàu cánh ngầm chiến đấu, như lớp Pegasus, từ năm 1977 đến năm 1993. Những chiếc tàu cánh ngầm này có tốc độ nhanh và trang bị tốt, có khả năng tiêu diệt tất cả các tàu nổi lớn nhất. Trong vai trò ngăn chặn ma tuý của mình, chúng là ác mộng cho những kẻ buôn lậu ma tuý[cần dẫn nguồn], chúng rất nhanh, có tên lửa và súng đủ để ngăn chặn bất cứ vật gì mà chúng không bắt được, cũng như khả năng gọi hỗ trợ của không quân.

Hải quân Italia đã sử dụng 6 tàu cánh ngầm lớp Nibbio từ cuối những năm 1970. Chúng được trang bị một súng 76 mm, hai tên lửa và có khả năng tăng tốc đến 50kn/h. Những chiếc tàu tương tự đã được sản xuất cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản

Thuyền buồm và thể thao

Chiếc thuyền buồm cánh ngầm thực nghiệm của Pháp Hydroptère là kết quả của một dự án nghiên cứu liên quan tới các kỹ năng ứng dụng và kỹ thuật hiện đại. Tháng 1 năm 2007, Hydroptère đã đạt tới tốc độ tối đa 47.2 knots.

Một thiết kế thuyền kayak mới, được gọi là Flyak, có các cánh ngần nhấc thuyền kayak đủ cao để làm giảm lực cản, cho phép thuyền đạt đến tốc độ 27 km/h.

Năm 2001, xuồng cao su bơm hoi Moth cũng đã được lắp đặt cấu hình cánh ngầm căn bản (Moth Foiler).

Những người lướt sóng cũng có những ván trượt có cánh ngầm, thích hợp hơn với các con sóng lớn và có thể đi xa hơn ra ngoài khơi.